#LịchsửvănhọcViệtNam #Gươngmặttácgiả #Phêbìnhvănhọc #Báochí #Nhàphêbình #Tácgiả #Đọcgiả #Tưduyluận #Côngviệcphêbình #VănhọcViệtNam #Truyềnthôngkỹthuậtđiệntử #Tiếnđườngvềchânlývàlẽphải #BáoTuổiTrẻ #BáoVănnghệ #Quámứctruyvấn #Tươngtác #Giảitrí #Bảophêbìnhvănhọc #Tánthưởng #Phảnhồi #Côngviệcnhàphêbình #Chúngtôilàlờingười #Ngườiđọc #Khởixuângiátrisựthậtvànghệthuật #Giớicầmbút #Bứcâumặthức #Chêbùi #Vịtríngệthuật #Vănvựcácchếtruyềnthông #Lượngphẩm #Biểntíchtruyềnthông #Tônvinhbáophêbình #Hiệuthuốcphongtình #Kỷnguyêntiếnlưngthôngkỹthuậtđiện tử #Mạchlạc #Thuyếtphục #Xấuhổ
Nguồn: https://vnca.cand.com.vn/Ly-luan/suc-nong-truyen-thong-va-do-nguoi-van-chuong-i696913/
Nhìn lại lịch sử văn học Việt Nam, nhắc đến giai đoạn nào phê bình văn học phát triển mạnh mẽ trên báo chí thì giai đoạn đó xuất hiện nhiều Gương mặt tác giả nhất và cũng được công chúng quan tâm nhất. Ví dụ, cố gắng loại bỏ thể loại phê bình văn học trên báo chí, chắc chắn văn học tiền chiến sẽ ít bị mờ nhạt. Chỉ trên 5 tờ báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Hà Nội Báo, Ích Hữu, Phụ Nữ Tân Văn Và Ngày Nay, mà Giáo sư Thanh Lãng (1924-1978) đã thống kê 300 bài viết để tập hợp thành bộ sách “13 năm tranh luận văn học 1932-1945” dày hơn 1500 trang. Bây giờ, đọc lại “13 năm tranh luận văn học 1932-1945”, độc giả hình dung được tương đối đủ đối diện gương mặt khoa học lúc ấy với những Gương mặt rạng ngời như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Quách Tấn, Băng Tâm, Khái Hưng, Nhất Linh, Xuân Diệu, Thạch Lam…
Tác phẩm văn học đích thực không sợ khen chê, mà chỉ sợ lãng quên. Do đó, nhà phê bình văn học trên báo chí có ý nghĩa kết nối độc giả và tác giả, đồng thời giúp tác phẩm được tắm trong dư luận như một cuộc đấu vàng thử lửa toàn thuyết phục. Khác với những cuốn sách phê bình văn học phần nhiều nghiêng về xu hướng gọt giũa tinh xảo và lan tỏa trong phạm vi quan, những bài phê bình văn học trên báo chí luôn có yếu tố tương tác mạnh mẽ. Những lời tán thưởng ngay lập tức hay những phản hồi phản hồi ngay lập tức, không chỉ khiến các cây bút phê bình thấy hưng phấn mà chính tác động sản phẩm hay vấn đề được đề cập cũng có cơ hội soi rọi ở những chiều kích khác nhau .

Tùy từng thời điểm mà phê bình văn học trên báo chí sẽ có màu sắc riêng. Những ai yêu văn học Việt Nam vẫn chưa quên cuộc tranh luận nghệ thuật vị trí nghệ thuật và nghệ thuật vị trí nhân sinh giữa Hoài Thanh (1909-1982) và Hải Triều (1908-1954) vào cuối thập niên 30 thế kỷ XX. Những ai yêu văn học Việt Nam vẫn còn nhớ cuộc tranh luận văn học đổi mới xoay quanh truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và thơ Lê Đạt. Tuy nhiên, dù có gay gạt bỏ bất kỳ hay dù có nóng bỏng bao nhiêu, thì có tiếng nói nhất định cũng tốt hơn sự im lặng đáng sợ. Phê bình văn học trên báo chí, du đãng đôi khi thiếu chút bình tĩnh, vẫn góp phần khơi gợi tư duy thẩm định tiếp nhận sáng tạo cho cộng đồng.
Sẽ là hy vọng, nếu khẳng định phê bình đi trước tác phẩm. Và sẽ là nặng nề, khẳng định nếu quyết định phê bình ăn theo tác phẩm. Phải xác định với nhau một sự thật lạc quan, phê bình đồng hành tác phẩm, phê bình chịu chung vinh nhục với tác phẩm. Mỗi bài phê bình văn học trên báo chí thường được độc giả ngắm nghía giống như một cái lọng che đầu cho tác giả và tác phẩm. Một cái lọng tia sáng dúa hay một cái lọng đơn sơ đều phải tương thích với các đối tượng. Bài phê bình văn học mà tán tụng quá mức sẽ thành trò lố bịch cho cả người viết lẫn người đọc.
Phê bình văn học trên báo chí nhiều lúc co lại thành những mục nho nhỏ mang tính chỉ ra chi tiết sai sót của tác phẩm hoặc tác giả, nhưng cũng cuốn hút người đọc như một sản phẩm đặc biệt. Tiêu biểu nhất là trường hợp chuyên mục “Dọn vườn” trên Báo Văn nghệ từ năm 1955 đến năm 2005. Đáng tiếc, chuyên mục “Dọn vườn” hiện không còn nữa, và độc giả có thể tìm thấy sản phẩm tương tự” Dọn vườn” ở chuyên mục “Quá mức truy vấn” trên Báo Tuổi trẻ cười. Vì sao báo chí mấy năm gần đây vắng cả những bài phê bình văn học tầm nhìn và những cục “Dọn vườn” nhí nhảnh? Lỗi tại báo chí, lỗi tại nhà phê bình, hay lỗi tại ai?
Sòng phẳng mà nói với nhau, phê bình là công việc thêm bớt thù hận của bạn, nếu người viết thực sự chấp hành những giá trị sự thật và những giá trị nghệ thuật. Giới cầm bút nước ta vẫn thắc mắc căn bệnh trầm kha là thích khen ngọt khen lạt hơn chê bùi chê bùi. Một tác phẩm được khen lung tung thì vẫn là tác phẩm giả hào hứng hơn được khen đích đáng. Vì vậy, các nhà phê bình đâm ra ái ngại, lâu dần sinh ra phản xạ không ngoan, trước bất kỳ tác phẩm nào cũng đưa ra những đánh giá vu vơ chung, miễn sao vui vẻ cả làng.
Để biện minh cho các nhà phê bình, cũng cần phân tích cơ chế truyền thông. Thứ nhất, không phải tờ báo nào cũng ấn vào bụng xót xa những vị trí đẹp tinh tế trên mặt báo cho những bài phê bình văn học. Vì vậy, những bài phê bình văn học lọt vào dạng sản phẩm hạng hai trên báo chí, cũng có mà không có cũng không sao. Thứ hai, không phải tờ báo nào cũng đủ bản lĩnh để cầm trịch cho một cuộc tranh luận văn học. Tâm lý e sợ sẽ diễn ra những màn đôi cùng quyết định, khiến nhiều tờ báo chỉ ưu tiên đăng tải những bài phê bình vô thưởng vô phạt. Bạn đọc không ghi chú được điều gì bổ ích từ dạng phê bình ấy, nên thở dài quay lưng. Thứ ba, chắt chiu dành cho các bài phê bình văn học trên báo chí, dường như cũng không đủ hấp dẫn để các nhà phê bình đầu tư một cách tử tế. Chất lượng của các bài phê bình văn học trên báo chí cứ lải nhải, cứ đưa ra, cứ xun xoe như món hàng trang trí không được ưu tiên.
Trước đây, với báo cáo, nhiều người chịu trách nhiệm về trang báo có hạn, không thể trong những bài phê bình văn học. Hôm nay, với biên độ vô biên của báo điện tử, những bài phê bình văn học vẫn cứ thưa thớt. Phê bình văn học trên báo chí chỉ còn tồn tại những bài điểm sách với ngôn ngữ tiếp thị lướt qua ngôn ngữ chương trình. Ngoài ra, những công ty sách còn trả tiền quảng cáo để ghi vào điểm sách theo ý đồ thương mại của họ. Và tổng hợp tất cả các yếu tố, độc rơi vào mê hồn giả trận các kiểu đánh bóng tác giả và lăng xê tác phẩm vô tội vạ. Hiện tượng lệch lạc trong văn hóa đọc ấy, có ai bận tâm không? Nếu thực sự Tôn vinh những bài phê bình văn học trên báo chí, có lẽ đã xuất hiện những thuốc chữa bệnh từ chối ruột, như Thế Lữ (1907-1989) từng viết vào năm 1940: “Sau các tủ kính, loại văn chương bỏ rác xếp cùng hàng với những tác phẩm khác, vàng thau lộn xộn và lừa đảo được nhiều khách hàng. Đó là một lối thoát buôn hời hợt… Thì ra nghề xuất bản có thể là bước thể hiện của những hiệu thuốc phong tình.” .
Những bài phê bình văn học trên báo chí còn xứng đáng tồn tại trong kỷ nguyên truyền thông kỹ thuật số không? Rất cần, không chỉ những tờ báo chuyên ngành mà những tờ báo phổ thông cũng rất cần những bài phê bình văn học mạch lạc và thuyết phục. Phê bình văn học trên báo chí chia lại lợi ích cho cả văn học lẫn báo chí, trên con đường tiến về chân lý và lẽ phải. Thật xấu hổ, khi ở trong bối cảnh hội nhập văn minh mà công chúng chỉ có thể đọc những bài phê bình vuốt ve và mộng mơn. Xin vui lòng chí mà học tập thái độ cầu thị của các bậc tiền bối làng văn làng báo trong việc tiếp nhận các bài phê bình văn học trên báo chí.
Chẳng hạn, Phan Khôi (1887-1959) đã bày tỏ quan niệm khi đối diện với bài phê bình của Thiếu Sơn (1908 -1978) rất mở ra vào năm 1931: “Ông Thiếu Sơn nhẹ tôi mà phê bình trước hết, chỗ đó Có phải lý do Tôi – Phan Khôi – đáng lẽ là người đưa ra mà phê bình không, ông lại riêng một vấn đề Nhưng ông Thiếu Sơn bắt đầu từ tôi, có lẽ ông chỉ tin tôi là người chịu đựng cho kẻ khác phê bình bình, là đối tượng tiện cho ông dùng trước khi dùng, ông không hỏi đến đáng cùng không đáng. Mà quả thật thế, tôi chịu được. Nếu trong cơ thể tôi có cái gì có thể bổ sung được tri thức cho khoa học Thì tôi nguyện nằm yên trên chiếc bàn mổ xẻ cho ông bác sĩ chuyên khoa giải phẫu, làm gì thì làm”.
[ad_2]